Dương Phong

Thứ Sáu, 30 tháng 1, 2015

MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP Ở CÂY QUÝT VÀ CÁCH CHĂM SÓC

- Bệnh Greening (Bệnh vàng lá cam, quýt).
- Sâu đục thân
- Rệp muội
- Ròi đục quả
Cách chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh cam, quýt:
Dùng Dầu khoáng phun cho cây làm hạn chế nấm mốc, rệp muội. Sau khi thu hoặc phun một lần và phun định kì hằng tháng.
-Thâm canh bón phân, sau khi thu hoạch xong người dân cần bón các loại phân chuồng, phân vi sinh, phân lân NPK cho cây. Bón phân đều sẽ giúp cây khỏe hạn chế được tình trạng mất mùa.
-Bón Vôi giảm độ chua, đất chua sâu bệnh sẽ phát triển mạnh, bón vôi sẽ làm cây cứng cáp, khỏe mạnh hơn. Tăng cường sức đề kháng sâu bệnh và giảm độ chua cho quýt.
-Trồng ổi xen canh với tỉ lệ 1ổi-1 quýt (cam); 1 ổi- 2 quýt (cam)
-Sau khi thu hoạch người dân nên tỉa cành già, cành la, cành vượt để cây nhận đủ ánh sáng mặt trời.
-Quét vôi các gốc cây quýt hạn chế tình trạng sâu đục thân.
CÁCH CHĂM SÓC QUÝT SAU MÙA THU HOẠCH

Cam, quýt sau thu hoạch cần được chăm sóc, vệ sinh, cắt tỉa, phòng trừ sâu bệnh để cây tiếp tục phát triển và cho mùa bội thu sau.
- Tiến hành làm sạch cỏ dại, sau 25 - 30 ngày thu hoạch cắt tỉa các cành sâu bệnh, cành tược, khô héo, cành tăm hương, mọc không đúng hướng...
- Quét vôi vào gốc cây ngăn sự cư trú của sâu bệnh.
- Phòng trừ sâu bệnh bằng các biện pháp kỹ thuật tổng hợp: bón phân đầy đủ, cân đối, kịp thời, bón đúng kỹ thuật, phun thuốc đúng lúc, đúng cách.
Với một số sâu bệnh hại như: sâu vẽ bùa, đục thân, sâu bướm, sâu nhớt, nhện đỏ, nhện vàng, nhất là bệnh vàng lá greening... phải thường xuyên theo dõi, quan sát phát hiện sớm để kịp thời ngăn chặn. Khi cây đã bị bệnh cần phải đào, đốt hủy, rắc vôi bột vào gốc cây bị hại.
Bón phân phục hồi và tưới nước: Đối với cây từ 3- 4 năm tuổi, bón 1 - 2kg AT1/gốc, cây 5- 6 năm tuổi bón 2- 3kg AT1/gốc, phân hữu cơ bón 20-50kg. Bón ngay sau khi thu hoạch, càng sớm càng tốt. Trước khi bón, đào đất chung quanh gốc tạo thành đường vành khuyên rộng 20-30cm, sâu 30-40cm theo đường chiếu vành tán cây, rải đều phân xuống và lấp đất lại.
- Thời kỳ kiến thiết (1-4 năm): Bón tập trung 1 đợt vào tháng 12 hoặc tháng 1 với lượng phân 20 - 25kg phân hữu cơ + 0,2kg sun phát đạm + 0,5kg super lân + 0,2kg kali sun phát.
- Vào thời kỳ thu quả: Bón 50kg phân chuồng + 1kg đạm + 1,2kg super lân + 0,5kg kali, chia ba lần bón:
+ Sau thu hoạch quả tháng 12 sang tháng 1: 50kg phân hữu cơ + 0,25kg super lân + 0,1kg kali.
+ Bón đón lộc xuân tháng 2 - 3: 0,6kg đạm + 0,6kg super lân + 0,25kg kali.
+ Bón thúc cành thu và nuôi quả tháng 6-7: 0,4kg đạm + 0,35kg super lân + 0,15kg kali.
- Cách bón:
+ Lần 1 (sau khi thu hoạch): bón theo vành mép tán, đào rãnh sâu 20cm, rộng 30cm. Các loại phân trộn đều cho vào rãnh lấp kín đất, tủ rơm giữ ẩm.
+ Bón thúc vào lần 2 và 3: trộn đều các loại phân hóa học rải đều trong vòng tán cây, với đảo sâu 4-5cm vùi đất lấp kín, tủ rơm rác giữ ẩm.
Bón phân xong tưới nước đều đặn, vừa phải cho phân tan để cây hấp thụ từ từ. Chú ý không nên tưới quá nhiều nước cho cây vì nếu thừa nước cây sẽ ra đọt non ảnh hưởng đến việc xử lý ra hoa.
- Cách tỉa cành và vệ sinh vườn : Cắt bỏ những cành già, cành sâu bệnh, cành vượt nằm bên trong tán, cành mọc sà dưới đất và cả những đoạn cành đã mang trái (dài 10-15cm). Cắt ngắn cỏ, chừa cỏ lại che phủ đất (hoặc che phủ bằng rơm rạ). Nếu trồng sát gốc cây thì dọn sạch cỏ, lá cây để mô được khô ráo. Cần tránh phủ sơ dừa sát gốc cây có múi để tránh lây lan bệnh Phytophthora. Các cành lá tỉa bỏ, trái hư, cỏ dại phải thu gom lại chôn lấp hoặc đốt bỏ.
- Nuôi dưỡng và bảo vệ : Định kỳ khoảng 10-15 ngày/lần, phun các chế phẩm HVP theo tỷ lệ: 30-10-10 (15g/8 lít nước) hoặc chế phẩm dưỡng lá (35ml/8 lít nước). Có thể pha chung với thuốc trừ sâu bệnh để phun xịt. Dưới gốc dùng vôi quét gốc, quét cao khoảng 1-1,5 m và rải vôi chung quanh các gốc cây, nhất là những cây bị bệnh. Nếu rễ cây bị tuyến trùng, rệp sáp tấn công có thể dùng Nokapd, Vimoca tưới vào gốc diệt, đồng thời pha thêm bột tốt rễ F.Bo để phục hồi bộ rễ nhanh, giúp cây sinh trưởng sung tốt trở lại.
Xử lý ra hoa
- Bón phân đón ra hoa, tạo mầm hoa: Trước thời điểm cho cây ra hoa 5-6 tuần, bón phân đón ra hoa (khoảng 200g DAP + 50KCL hoặc 400g AT 2/gốc 4-5 tuổi) và phun chế phẩm giúp cây tạo mầm hoa (phun F.Bo: 15g/8 lít, phun hai lần, cách nhau 4-5 ngày) trước khi ngưng tưới một tuần.
- Bắt cây cảm ứng ra hoa: Ngưng tưới và rút nước mương (nếu có) khoảng 2-4 tuần cho đến khi cây vừa "xào lá" (lá hơi héo vào buổi chiều nhưng sáng mai không tươi lại hoàn toàn). Sau đó tưới nước đẫm lại ba ngày liền, ngày tưới hai lần. Ngày thứ tư thì tưới mỗi ngày/lần.
- Phun thuốc thúc ra hoa đồng loạt: Sau khi tưới nước lại 2-3 ngày, bộ lá tươi lại, pha 35ml RA HOA C.A.T + 15g F.Bo/8 lít phun sương đều tán cây và trong thân cây hai lần (5 ngày/lần) thúc ra hoa đồng loạt, sau khi cây ra đọt non tưới hai ngày/lần.

Thứ Ba, 27 tháng 1, 2015

Dương Phong phát triển vùng cây ăn quả

Dương Phong là một trong những địa phương có diện tích trồng cam, quýt tương đối lớn của huyện Bạch Thông. Những năm gần đây việc mở rộng diện tích trồng cam, quýt theo hướng sản xuất hàng hoá đã giúp nhiều hộ dân nâng cao thu nhập.

 
Việc trồng cam, quýt ở Dương Phong đã được phát triển mạnh theo hướng sản xuất hàng hoá.

Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng đem lại hiệu quả kinh tế cao ở Dương Phong trong những năm gần đây phải kể đến cây cam, quýt. Lãnh đạo địa phương cho biết, cây cam, quýt được nhân dân trong xã đưa vào trồng từ rất lâu nhưng trước đó chỉ trồng nhỏ lẻ, manh mún, chủ yếu là để phục vụ nhu cầu của gia đình. Diện tích trồng cam, quýt chỉ thực sự phát triển mạnh và đem lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần nâng cao thu nhập cho nhiều hộ dân trong khoảng trên dưới mười năm gần đây.
 Việc phát triển, mở rộng diện tích trồng cam, quýt ở Dương Phong có nhiều yếu tố thuận lợi đó là điều kiện khí hậu, đất đai phù hợp với sự sinh trưởng của loại cây trồng này, phần lớn người nông dân đã có kinh nghiệm trong việc trồng, chăm sóc cam, quýt. Thực tế đã chứng minh cây cam, quýt là cây trồng chủ lực mang lại thu nhập cao, không những giúp nông dân xoá nghèo mà còn vươn lên làm giàu. Chính vì vậy việc mở rộng diện tích trồng cam, quýt theo hướng sản xuất hàng hóa đã và đang được cấp uỷ, chính quyền địa phương quan tâm. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XVI đã xác định cây cam, quýt là cây trồng mũi nhọn, được đưa vào chỉ tiêu phấn đấu hàng năm. Do đó chính quyền xã luôn đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân chuyển đổi những diện tích đất đồi thấp có hiệu quả kinh tế thấp sang trồng cam, quýt để nâng cao thu nhập, góp phần đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo.
Nhiều hộ gia đình đã chủ động mở rộng diện tích và tiếp nhận triển khai các đề án, dự án của huyện, tỉnh vì vậy vài năm trở lại đây diện tích và sản lượng cam, quýt của xã Dương Phong không ngừng tăng nhanh, hầu hết các nông hộ đều có vườn cây ăn quả từ 0,5 đến 2,5 ha. Hiện nay diện tích trồng cam, quýt của toàn xã là hơn 308 ha, trong đó diện tích đã cho thu hoạch là 210 ha, tập trung nhiều tại các thôn Bản Mún 1, Tổng Ngay, Tổng Mú, Nà Cọ, Khuổi Cò.
Để việc mở rộng diện tích trồng cam, quýt đem lại hiệu quả kinh tế cao, đáp ứng với nhu cầu sản xuất hàng hoá, chính quyền địa phương thường xuyên phối hợp với cơ quan chuyên môn tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật về trồng, chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh hại; tuyên truyền cho nhân dân áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào thâm canh nhờ đó năng suất, chất lượng cam, quýt đã đáp ứng nhu cầu của thị trường. Năm 2011 tổng sản lượng cam, quýt của xã đạt 800 tấn, đạt giá trị 8 tỷ đồng. Cam, quýt thương phẩm được các xuất bán đi thị trường các tỉnh, thành phố như Thái Nguyên, Hà Nội... Nhiều nông hộ có thu nhập từ cam, quýt đạt 100 - 200 triệu đồng/vụ. Điển hình như gia đình anh Bàn Văn Lợi ở thôn Khuổi Cò là một trong những hộ có diện tích trồng cam, quýt lớn trong xã. Hiện nay gia đình anh sở hữu 4 ha tương đương với khoảng 2.000 cây cam, quýt. Toàn bộ diện tích này đã cho thu hoạch. Năm 2011 gia đình thu được trên 20 tấn quả, với giá bán bình quân 10.000 - 11.000 đồng/kg, cho thu nhập về trên 200 triệu đồng.
Năm 2004 Sở Khoa học và Công nghệ đã phối hợp với Viện nghiên cứu rau quả Trung ương triển khai dự án lấy mắt cây cam, quýt của địa phương ghép với gốc bưởi và thực hiện trồng trên diện tích 5 ha. Kết quả đến nay cây đã cho thu hoạch với chất lượng quả bảo đảm giống như cam, quýt địa phương. Năm 2007 Viện nghiên cứu rau quả Trung ương đã xây dựng vườn ươm nhân giống quýt ghép sạch bệnh tại xã để cung cấp giống cho nhân dân, đề án được người dân đồng tình ủng hộ do đó diện tích trồng giống quýt ghép không ngừng được mở rộng, năng suất, chất lượng ngày càng đáp ứng yêu cầu. Những đề án, dự án của tỉnh được triển khai tại địa phương là một lợi thế để cây cam, quýt ở Dương Phong phát triển mạnh mẽ theo hướng sản xuất hàng hoá.
Tuy nhiên, hiện nay việc phát triển vùng cây ăn quả đặc sản ở Dương Phong vẫn còn có hạn chế nhất định do địa hình có độ dốc cao, nhiều khu đất bạc màu, cằn cỗi và thiếu nước, diện tích trồng cam, quýt không tập trung, nhiều gia đình chỉ chú trọng tới thu nhập trước mắt nên phát triển cam, quýt thiếu sự bền vững. Do đó, để đạt được mục tiêu tạo vùng sản xuất hàng hoá, xã Dương Phong đã đề ra những giải pháp thực hiện, trong đó tập trung vào các giải pháp thiết thực như tiếp tục chuyển giao khoa học kỹ thuật cho người dân về cách chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh, bảo quản sau thu hoạch, đưa giống quýt ghép vào trồng để nâng cao năng suất, sản lượng. Vận động nhân dân mở rộng diện tích theo từng năm tiến tới đưa cam, quýt trở thành hàng hoá lớn cung cấp cho thị trường trong và ngoài tỉnh, nâng cao giá trị kinh tế của loại cây trồng thế mạnh này./.

 Nguồn:  Theo http:www.baobackan.org.vn

Thứ Hai, 26 tháng 1, 2015

Phát triển nông sản hàng hóa ở Dương Phong

Thực hiện Đề án chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tăng giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích, huyện Bạch Thông đã đưa một số cây trồng có giá trị kinh tế vào thâm canh, góp phần nâng cao thu nhập, xóa đói giảm nghèo cho nông dân. Đến nay huyện đã thực hiện thành công việc thâm canh cây cam, quýt, thuốc lá, khoai môn tạo thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung giúp cho nông dân không những thoát nghèo mà còn vươn lên làm giàu.
Hiệu quả kinh tế rõ nét
Sau nhiều năm thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đến nay huyện Bạch Thông đã quy hoạch và phát triển được vùng sản xuất nông sản hàng hóa với 1.200ha cây cam, quýt, 246ha cây công nghiệp ngắn ngày, 64,34ha cây khoai môn…Đây chính là điều kiện để huyện miền núi này phát huy được thế mạnh về sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa, nâng cao giá trị thu nhập. Có thể nói hiệu quả nổi bật nhất trong việc quy hoạch vùng sản xuất hàng hóa đó chính là vùng trồng cây ăn quả cam,quýt bao gồm các xã Quang Thuận, Dương Phong, Đôn Phong.

Quýt ở Bạch Thông đã trở thành hàng hóa,có giá trị kinh tế cao giúp cho hàng trăm nông hộ vươn lên làm giàu
                                                                                                                                 (theo báo bắc kan)

Quýt Bắc Kạn: những vấn đề đang đặt ra về chất lượng và tiêu thụ


Quýt Bắc Cạn và cam sành là cây ăn quả đặc sản miền núi phía Bắc được nhiều người ưa chuộng bởi hương vị đặc biệt. Năm 2012 quýt Bắc Kạn đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp chứng nhận chỉ dẫn địa lý. Đến nay toàn tỉnh có khoảng 1.700 ha cam, quýt, tập trung nhiều tại huyện Bạch Thông với diện tích trên 1000 ha. Là cây trồng chủ lực góp phần vào việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo của địa phương do mỗi héc-ta cam, quýt mang lại cho người dân thu nhập khoảng 200 triệu đồng/vụ. Tuy nhiên vấn đề cấp bách hiện nay đối với người trồng cam, quýt là tiêu thụ và nâng cao chất lượng quả.

Quýt trồng ở xã Dương Phong - Bạch Thông - Bắc Kạn 
Theo ông Nguyễn Duy Thăng- Chủ tịch Hội Làm vườn xã Dương Phong ( Bạch Thông) quýt Bắc Kạn đã trồng ở xã cách đây 20 năm. năm 2010 có 300 ha, đến nay đã có 500 ha. Trong đó, diện tích cho thu hoạch 350 ha với năng suất trung bình 7 tấn/ha thì sản lượng năm 2014 khoản 2450 tấn. Do giá năm nay thấp khoảng 10-12 nghìn đông/kg thì ước tính cả xã cũng thu được 25-28 tỷ đồng. Tuy vậy cũng cao hơn rất nhiều so với trước đây chỉ trồng sắn, khoai môn, ngô và lúa nương.

GS. Ngô Thế Dân - Chủ tịch HLV VN thăm vườn quýt của anh Bàn Văn Lợi ở xã Dương Phong 
Hiện nay, hầu hết các hộ gia đình xã Dương Phong trồng quýt, trong đó khoảng 40%-50% số hộ có thu nhập cao từ quýt, tiêu biểu như: hộ gia đình anh Bàn Văn Lợi- dân tộc Dao ở thôn Khuổi Cò. Anh Lợi là hội viên HLV xã và là một trong những người tiên phong đưa giống quýt Bắc Kạn và cam sành ( Hà Giang) về trồng tại xã. Để có 10 ha cam, quýt sai trĩu quả, gia đình anh Lợi đã trải qua bao nhiêu khó khăn, vất vả. Với bản tính cần cù và chịu khó của người nông dân miền núi, năm 2000 anh Lợi đã phát dọn, cải tạo những diện tích rừng đồi thấp được giao khoán của gia đình và mua 200 cây quýt giống về trồng. Đến nay nhà anh đã có 6/10 ha cam, quýt cho thu hoạch, mỗi năm thu về hàng tỷ đồng ( cam 600 triệu, quýt 800 triệu). Nhờ việc trồng cam, quýt anh Lợi cũng như nhiều hộ gia đình của xã đã xây được nhà cao tầng. Trao đổi với Giáo sư Ngô Thế Dân- Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam, anh Lợi nói: “Người dân ở xã còn nghèo thiếu vốn để đầu tư cho sản xuất, thay mặt bà con trồng quýt ở Dương Phong đề nghị nhà nước ưu tiên cho các hộ vay tiền để chăm sốc và mở rộng diện tích trồng quýt với lãi xuất thấp của Ngân hàng chính sách và đầu tư đường giao thông đến tận vùng sản xuất để có thể vận chuyển cam, quýt thuận lợi”. Thực vậy, hiện nay đang mùa thu hoạch quýt, dân các xã Dương Phong, Quang Thuận.. đang nhộn nhịp thu hoạch và chở quýt ra chợ bán. Những chiếc xe máy leo trèo trên những quả đồi cao để chở quýt ra đường quốc lộ mới thấy sự vất vả và nguy hiểm của người làm nông.

Người dân Khuổi cò đang vận chuyển quýt bằng xe máy  ra chợ
Năm nay quýt được mùa nhưng mất giá do chất lượng quả quýt Bắc Kạn có vị chua cao chưa thích hợp với khẩu vị của người dân thành phố. Người bán lẻ ở chợ còn cho chúng tôi biết năm nay ít có người mua đóng thành thùng hàng làm quà. Mặt khác tư thương ép giá còn với lý do là năm nay kiểm soát nghiêm ngặt xe không được chở quá tải vì vậy giá cước vận chuyển cao. Đây cũng đang là bài toán đau đầu cho người dân khi có ý định mở rộng diện tích trông những năm sau.
Về vấn đề này, trao đổi với ông Hoàng Ngọc Đường – Chủ tịch Hội Làm vườn tỉnh - nguyên Chủ tịch tỉnh Bắc Kạn, Giáo sư Ngô Thế Dân đề nghị: UBND tỉnh cần có chính sách tạo điều kiện cho người dân vận chuyển tiêu thụ sản phẩm và nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật nâng cao chất lượng quả như có thể bón ka li để giảm vị chua của quýt.
                                                                                         Đỗ Văn Hòa - HLV VN

"Đại gia" chân đất ở Bắc Kạn

Dù xuất phát điểm chỉ hai bàn tay trắng trên mảnh đất nghèo nhưng ở nhiều vùng cao Bắc Kạn vẫn xuất hiện không ít tỷ phú. Những tỷ phú đi chân đất và cũng chỉ biết bắt đất đẻ tiền.

Dù xuất phát điểm chỉ hai bàn tay trắng trên mảnh đất nghèo nhưng ở nhiều vùng cao Bắc Kạn vẫn xuất hiện không ít tỷ phú. Những tỷ phú đi chân đất và cũng chỉ biết bắt đất đẻ tiền.
Vua quýt Bàn Sinh Lợi 
Là loài cây ăn quả lâu đời và nổi tiếng bậc nhất ở vùng cao Bắc Kạn nhưng quýt Quang Thuận (huyện Bạch Thông) từng bị quên lãng vì giá trị kinh tế thấp. Mọi chuyện chỉ  thay đổi  khi một nông dân người Dao chán ruộng vác rựa lên đỉnh Dương Phong... 
Xã Dương Phong xa xôi nhất của huyện Bạch Thông, là nơi sinh sống chủ yếu của đồng bào Dao và Tày. Cuộc sống ở đây vào thập kỷ trước từng được ví là “đói nghèo đến mức không có nổi mùng tơi để rớt”. Dù là địa phương vùng cao nhưng toàn xã chỉ có chừng 110 ha đất nông nghiệp. Lúa chỉ làm được một vụ nên dân buộc phải dựa vào nương quýt để sống nhưng cũng chẳng đổi thay được đói nghèo. Đất trồng quýt thậm chí còn hiếm hơn đất lúa bởi đồi núi, bãi sòi, các thung lũng giang nứa không thể cải tạo. Mấy cán bộ ở Dương Phong bảo, thời ấy mỗi vườn quýt mỗi năm cho thu hoạch được vài ba sọt. Bán tại chỗ không ai mua còn mang ra đến chợ huyện chỉ vỏn vẹn vừa ăn một bát phở. Hộ đói nghèo lúc nào cũng chiếm hơn 70%... Dần dần, dân cũng chán quýt, họ bỏ lên rừng chặt nứa tép vác ra chợ bán lấy tiền đong gạo qua ngày.
Đến bây giờ nhiều bậc cao niên ở Dương Phong vẫn không dám hình dung số phận cây quýt ngon nhất khu vực Việt Bắc này sẽ ra sao nếu không có anh bộ đội Bàn Sinh Lợi (SN 1971), một người Dao ở bản Khuổi Co trở về làng vào năm 2000. Ngót chục năm sau, hỏi anh người ta chỉ gọi “người mở đường trên đỉnh Dương Phong”. 
“Người mở đường” Bàng Sinh Lợi bên đồi quýt tiền tỷ
Chủ tịch HND xã Dương Phong Nguyễn Duy Thăng vừa dẫn tôi lên đồi quýt tìm Lợi vừa dành những mỹ từ cho chàng bộ đội Dao khi xưa mà bây giờ đã là tỷ phú nhờ làm chủ trang trại quýt trù phú bậc nhất ở Bắc Kạn. “Trồng quýt ở cả vùng Việt bắc này không ai “ăn” được nó đâu”.
Cứ leo qua một con dốc ông Thăng lại hú một tiếng để tìm, cơ chừng 4-5 lần hú như thế mới nghe tiếng vọng đáp trả của Lợi tít trên đỉnh đồi. “Mỗi lần hú là một ha. Chỉ riêng quả đồi này là 5ha. Cộng thêm quả đồi bên kia nữa là 8ha. Mỗi ha nếu thuận lợi thu hoạch được chừng 200 triệu. Một năm chỉ làm từng này đã có 1,6 tỷ. Trồng quýt bây giờ không thể nghèo”. Bàn Sinh Lợi mở đầu câu chuyện ngắn gọn. Một nông dân người Dao mỗi năm có chừng ấy tiền đã là bất ngờ, càng không hiểu nổi vì sao dù giàu như thế nhưng ngày nắng cũng như ngày mưa Lợi đều lăn lộn với vườn đồi. Làm đỡ vài chục ngàn tiền công mỗi ngày chắc không phải. Hỏi, anh chỉ cười rồi trầm ngâm kể về những ngày nghèo đói chưa xa. “Nghĩ cũng hay. Được như hôm nay một phần là nhờ tôi chán nản đấy”.
Rời quân ngũ trở về làng, ruộng đất làm không đủ ăn, Lợi càng hoang mang sau khi lấy vợ. Cặp vợ chồng trẻ được cha mẹ làm cho một căn nhà nhỏ ở trên lưng chừng núi, dưới là thung lũng, xung quanh là núi đá, vợ chồng không biết làm gì để có ăn ngoài việc phát nương làm rẫy để trồng ngô. Đất bạc màu, ngô không tốt, ngày ngày vợ chồng vào rừng chặt nứa tép vác ra chợ bán cũng chỉ được 10-15 ngàn, vừa đủ tiền đong gạo.
Một hôm chán quá, Lợi xách rựa xăm xăm lên đỉnh Dương Phong. Vạch cây nứa, cây giang đi mãi cuối cùng lạc vào một bãi đất trống mà dân bản ít khi đặt chân tới. Cắm một nhát rựa thấy đất tốt nhưng suy nghĩ hồi lâu không biết trồng cây gì. Lợi bèn khăn gói đi bộ xuống thị xã Bắc Kạn đánh điện hỏi mấy ông bạn từ hồi quân ngũ đang làm trang trại tận Tây Nguyên. Qua một hồi kể lể Lợi được bạn bè gửi ít vốn về trồng thử lại cây quýt Quang Thuận xem sao. Vừa nhờ người mua giống, Lợi vừa tự mình phát lối mòn lên tận đỉnh ngọn đồi cao nhất ở Khuổi Co.
Dù nắm gia tài tiền tỷ nhưng Bàn Sinh Lợi không chơi nhà lầu xe hơi như các đại gia khác. Anh chỉ có mỗi một sở thích là mua két bạc với quan niệm “làm trước chơi sau”. Phần lớn tài sản anh đầu tư hết vào đồi quýt và làm đường, bởi với Lợi "chỉ có những con đường mới giúp các chủ trang trại giàu lên được”.
Những ngày thấy anh đào đường, mấy người trong bản mắt tròn mắt dẹt kháo nhau không khéo thằng này đi bộ đội tiếp xúc với súng đạn nhiều nên thần kinh có vấn đề. Ai dưng một mình đi đào mấy cây số đường rừng lên bãi đất hoang làm gì? Họ càng có cớ để khẳng định suy luận của mình khi nghe Lợi giải thích đào đường để đi trồng quýt. Ai nấy đều đều lắc đầu bỏ đi bởi họ chẳng còn tin vào loài cây ăn phôi pha thì ngon chứ không no cái bụng được. Không nản chí, Bàn Sinh Lợi tiếp tục đào đường, anh còn uốn các đường nước từ những quả đồi bên cạnh về đỉnh Dương Phong lấy nước tưới tiêu. Những công trình mà anh bảo rằng mãi sau này mấy người đến tham quan nằng nặc nhất định phải là máy móc làm chứ sức người sao mà làm nổi.
Phải mất 5 năm Lợi mới trả được số tiền 10 triệu đồng vay ngân hàng làm vốn trồng quýt. Cũng chừng ấy thời gian anh biến số vốn ít ỏi ban đầu thành gia tài tiền tỷ. Diện tích trồng quýt không ngừng được mở rộng. Tiền bạc bây giờ không còn là vấn đề, Bàn Sinh Lợi tậu hẳn một chiếc ô tô bán tải địa hình chuyên để…chở phân.
Quan trọng hơn, dân bản ngày ngày lũ lượt kéo đến vườn xin chiết cành về làm trang trại thì không đếm xuể.
Trồng được quýt rồi Lợi rủ mấy thanh niên trong xã lên Cao Bằng, sang Lạng Sơn kêu thương lái đến tận nơi xem hàng. Vụ quýt vừa rồi khắp các bản làng Dương Phong rầm rộ xe tải về gom hàng. Thương lái từ Lạng Sơn, Cao Bằng,…vào tận vườn thu mua rồi cho người đến hái, nông dân chỉ việc ngồi đếm tiền. Một chân lý đơn giản, “quýt có nhiều thương lái mới vào mua”, vậy mà suốt bao năm không ai nghĩ ra.
Từ mảnh đất cắm rựa trên đỉnh đồi, diện tích trồng quýt ở Dương Phong cứ lớn dần lên. Số triệu phú rồi tỷ phú từ các trang trại quýt cũng không còn riêng mình nông dân Lợi.  Mảnh đất khó từng hành hạ nông dân vùn cao này không biết bao nhiêu năm trong đói nghèo giờ đã biết đẻ tiền. Ông Thăng tự hào rằng, ở Dương Phong giờ nhà nghèo hiếm lắm. Cả xã có 409 hộ nhưng chỉ còn vỏn vẹn có 9 hộ nghèo. Còn những hộ vươn lên tầm tầm cỡ Bàn Sinh Lợi thì phải hàng chục. Số hộ thu nhập hơn 100 triệu/vụ quýt không dưới 50 hộ. Từ Khuổi Co đến Bản Mún, cái tin ông này mua ô tô, ông kia xây nhà lầu…không còn là chuyện lạ.
Ông Thăng làm phép tính: Có gần 500 ha trồng quýt. Nếu chia bình quân mỗi hộ ít nhất cũng hơn 1ha. Trong hoàn cảnh bây giờ, có đất, có vốn vay, có dân làng giúp đỡ mà còn nghèo thì có lẽ phải là trường hợp cá biệt. Dương Phong bây giờ là nơi đến thường xuyên của các đoàn tham quan, học hỏi mô hình trồng cây ăn quả. Ngân sách chủ yếu của xã đến từ các đồi quýt gấp hàng trăm lần so với trồng lúa. Trụ sở UBND xã treo đầy các hình ảnh về quýt Quang Thuận, loài cây mà họ từng lãng quên.
Nhưng thành quả lớn nhất mà “người mở đường” mang lại cho nông dân vùng cao Dương Phong là giúp họ có thể sống được trên đất của mình.
Cạnh trang trại của Bàn Sinh Lợi là đồi quýt của Nguyễn Mạnh Hà, một nông dân cũng vào loại khủng nếu quy giá trị tài sản hiện tại thành tiền. Trang trại của Lợi và Hà thường xuyên tạo công ăn việc làm cho khoảng gần 20 lao động. Thanh niên địa phương không cần vào Nam làm thuê như ở nhiều vùng quê khác mà chỉ loanh quanh ở mấy bản làng ngay tại quê nhà cũng có thể thu nhập ổn định. Làm vài năm, có ít vốn liếng, vay mượn thêm họ lại tách ra lập trang trại. Những ông chủ triệu phú mới lại xuất hiện. Ở Dương phong hầu như không có khái niệm cạnh tranh, chỉ đơn thuần giúp đỡ nhau làm giàu chỉ với suy nghĩ đơn giản: “Quýt làm bao nhiêu cũng có thể bán, bởi mấy năm nay đã xuất khẩu sang tận Trung Quốc”. Cán bộ xã Dương Phong cũng không thể trông vào đồng lương ít ỏi nên cũng thuê đất thuê rừng làm trang trại. Ngày cuối tuần khắp các đồi núi ở vùng cao này chỉ có nông dân. (Còn nữa)
HOÀNG ANH

Giới Thiệu về Dương Phong huyện Bạch Thông

Dương Phong là một  của huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn, Việt Nam. Xã có vị trí:
Xã Dương Phong có diện tích 49,92 km², dân số khoảng 1.741 người, mật độ dân số đạt 34,9 người/km². Sông Cầu chảy qua địa bàn xã theo chiều tây-đông, ngoài ra xã còn có các phụ lưu của sông như khuổi Hóp, khuổi Quang, khuổi Thánh, khuổi Mít, khuổi Ngược, khuổi Mai, suối Thôm Pòng, khuổi Lỏng, khuổi Quan, khuổi Cường, khuổi Quoềng, khuổi Vài, khuổi Bún, khuổi Pác. Xã có tỉnh lộ 257 chạy qua địa bàn, song song với sông Cầu.
Xã Dương Phong được chia thành các thôn bản: Nà Chèn, Mèn, Pè, Tổng Mú, Tổng Ngay, Nà Coọng, Khuổi Cỏ, Chàn, Mún 1, Mún 2.